Amiang trắng là gì, có thật sự ảnh hưởng sức khỏe con người?

Mặc dù đã được khai thác và ứng dụng hàng trăm năm nhưng sợi amiang trắng vẫn hiểu nhầm là độc hại và ảnh hưởng đến sức khỏe con người.

Được mệnh danh là “sợi vàng” trong tiếng Hy Lạp, amiang trắng với nhiều đặc tính ưu việt và không thể thay thế đã được sử dụng từ cách đây hàng trăm cho nhiều ngành công nghiệp sản xuất quan trọng. Tuy nhiên, những thông tin không chính xác về sự độc hại cũng như nguy cơ ảnh hưởng tiêu cực của đến sức khỏe con người của amiang trắng đã gây nên nỗi sợ hãi và thiệt hại kinh tế cho nhiều quốc gia, doanh nghiệp.

Amiang trắng là gì và có ở đâu?

Amiang trắng (hay còn được gọi là chrysotile) là khoáng vật amiang duy nhất thuộc nhóm serpentine, gồm tập hợp nhiều sợi nhỏ, xốp, mềm dẻo liên kết theo dạng xoắn ốc thành ống hình trụ có thể uốn cong. Amiang trắng nhóm serpentine được thiên nhiên phân bổ rộng khắp trên thế giới.

Amiang Anh Huong Den Suc Khoe Con Nguoi Khong

Lịch sử ghi nhận việc phát hiện mỏ amiang trắng lớn nhất Canada vào năm 1877 đã tạo động lực cho sự phát triển trên diện rộng và quy mô lớn của ngành công nghiệp khai khoáng loại sợi đặc biệt này. Tính đến nay, amiang trắng cũng là nhóm sợi amiang duy nhất còn được phép khai khác, xuất nhập khẩu và sử dụng rộng rãi trên thế giới. Trong khi đó, nhóm sợi amiang nâu và xanh với các nguy cơ gây bệnh ung thư và nhiều bệnh phổi nguy hiểm khác cho con người đã bị cấm sử dụng dưới mọi hình thức từ lâu.

Amiang trắng sở hữu nhiều đặc tính nổi trội và khó có thể thay thế bởi bất kỳ sợi tự nhiên hay nhân tạo nào khác như bền, dai, chịu nhiệt, cách điện, cách âm, chịu ma sát tốt, chống cháy, chịu được môi trường kiềm, cách điện, khó phân huỷ, ngăn cản vi khuẩn và sự tán xạ…

Sản phẩm, vật liệu amiang trắng phổ biến

Với những ưu điểm nổi trội kể trên, amiang trắng đang là nguồn nguyên liệu đầu vào hữu ích cho khoảng 3000 sản phẩm thuộc nhiều ngành nghề khác nhau như công nghiệp sản xuất sản phẩm fibrô xi măng (đặc biệt là tấm lợp sóng amiăng xi măng tại các nước đang phát triển), các vật liệu cách điện, cách nhiệt, ngành ôtô, ngành hàng không, dược, dầu mỏ và hạt nhân, sản xuất vật liệu chống cháy, sản phẩm dệt may và một số ngành khác.

Tại Việt Nam, sợi amiang trắng cũng được sử dụng chủ yếu cho ngành sản xuất tấm lợp fibro xi măng. Tuy nhiên, tấm fibrô ximăng chỉ chứa một lượng rất nhỏ sợi amiăng trắng (từ 8 – 10%), còn lại khoảng 90% là ximăng. Các sợi amiăng trắng gắn kết rất chặt chẽ với hạt ximăng trong suốt quá trình sản xuất nên vừa tạo ra thành phẩm chất lượng vừa ngăn chặn được việc phát tán bụi sợi ra bên ngoài môi trường.

Hiện nay trên thế giới cũng như ở Việt Nam, ngành công nghiệp amiang trắng xi măng đã phát triển với nhiều sản phẩm mới đa dạng, đáp ứng được nhu cầu sử dụng khắt khe của người tiêu dùng như tấm lợp fibro xi măng màu, tấm panel tường, ngói và nhiều vật liệu trang trí khác. Tại Thái Lan, việc áp dụng những sản phẩm amiang xi măng màu mới vào trong các công trình nhà ở, biệt thự, giúp xóa bỏ rào cản giữa những người giàu – nghèo.

Amiang trắng ảnh hưởng đến sức khỏe con người?

Mặc dù đã có lịch sử sử dụng hàng trăm năm và nhiều nghiên cứu khoa học chứng minh khả năng đào thải ra khỏi cơ thể trong thời gian ngắn, sợi amiang trắng vẫn bị hiểu lầm là một chất nguy hiểm cho sức khỏe con người.

Trong đề tài nghiên cứu “Rủi ro sức khỏe của amiăng trắng”, Tiến sĩ David Bernstein (Thụy Sỹ) đã làm rõ sự khác biệt giữa amiăng xanh, nâu (đã bị cấm) và amiăng trắng. Theo đó, amiăng trắng có hình trụ, gồm các tiểu sợi chrysotile bó với nhau thành sợi và dễ bị phân hủy trong môi trường axit (von Kobell, 1834; Pundsk và cộng sự, 1988). Trong khi đó, mặt ngoài của cấu trúc tinh thể amiăng xanh và nâu giống như thạch anh, có sự bền hóa học của thạch anh khiến chúng gần như không tan trong môi trường axit của cơ thể (Speil và Leineweber, 1969). Tiến sĩ Bernstein kiến nghị: Công nhận sự khác nhau giữa 2 loại sợi khoáng là cần thiết khi thực hiện các phương thức bảo vệ sức khoẻ công nhân. Ngày nay, chỉ có amiăng trắng được sử dụng chủ yếu trong phối trộn với xi măng tạo ra độ kết dính cao. Rủi ro ung thư khi phơi nhiễm với sợi amiăng xanh và nâu rất nghiêm trọng và việc sử dụng amiăng xanh, nâu trong quá khứ đã để lại hậu quả đến ngày nay. Như vậy, nếu không phân biệt loại sợi và sự khác biệt về khả năng gây bệnh, ta không thể loại bỏ các bệnh liên quan đến amiăng một cách hiệu quả.

Tương tự, các nghiên cứu về nồng độ sợi amiăng trong không khí ở các khu vực có nhiều mái lợp bằng tấm lợp amiăng xi măng ở Úc, Đức, Áo đều cho rằng nồng độ amiăng không có sự khác biệt với nồng độ amiăng vốn có trong tự nhiên là 0,001 sợi/cc – mức được WHO, Ủy ban amiăng Hoàng gia Ontario và Hội Hoàng gia London đánh giá lần lượt là “có thể chấp nhận được”, “không đáng kể” và “… không có cơ sở để kiểm soát thêm”.

Ở Việt Nam, các nghiên cứu cũng không khẳng định amiang trắng ảnh hưởng tới sức khỏe con người. Viện Vật liệu Xây dựng – Bộ Xây dựng với đề tài “Tình hình sản xuất, sử dụng tấm lợp xi măng amiăng và khả năng sinh bụi của tấm lợp” đã kết luận: Trong tấm lợp amiang trắng xi măng, các sợi amiăng trắng liên kết rất chặt chẽ, rất sâu với đá xi măng thủy hóa. Các khoáng thủy hóa của xi măng bao bọc và thâm nhập sâu vào sợi amiăng trắng. Ngoài ra, thành phần và cấu trúc của sợi amiăng trắng nằm trong tấm lợp phibro xi măng đã bị biến đổi so với sợi amiăng nguyên khai. Tuổi tấm lợp càng dài thì xi măng càng thâm nhập nhiều và làm biến đổi sợi amiăng càng nhiều.

Amiang Anh Huong Den Suc Khoe Con Nguoi Khong 1

Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: “Nghiên cứu các bệnh liên quan đến amiăng ở những người tiếp xúc” được thực hiện năm 2009 – 2011 do Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi Nhật Bản, thông qua Tổ chức Y tế thế giới (WHO), tài trợ cho Cục quản lý Môi trường Y tế – Bộ Y tế. Kết quả trong số 447 trường hợp mắc các bệnh liên quan đến amiăng như bệnh ung thư phổi, mảng dày màng phổi và ung thư trung biểu mô thì chỉ có 39 mẫu bệnh phẩm sau sàng lọc được gửi sang Bệnh viện Hiroshima, Nhật Bản để chẩn đoán. Các chuyên gia Nhật Bản cuối cùng đã xác định chỉ có 08 trường hợp thực bệnh, trong đó không có trường hợp nào có tiền sử rõ ràng tiếp xúc nghề nghiệp với amiăng.

Nhập khẩu và sử dụng amiang trắng an toàn

Trên Thế giới

Hiện nay còn 139 quốc gia và vùng lãnh thổ vẫn đang cho phép sử dụng amiăng trắng, trong đó có các nước G7 và G20 như Mỹ, Liên Bang Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Indonexia, Mexico và các nước Đông Nam Á.

Ở Mỹ, năm 1991 Tòa thượng thẩm Hoa Kỳ đã hủy bỏ lệnh cấm và lệnh bãi bỏ dần amiăng trắng vì thiếu chứng cứ thuyết phục và chưa tìm được sản phẩm thay thế hữu hiệu. Từ đó đến nay nước Mỹ đang được phép sử dụng các sản phẩm chứa amiăng xi măng gồm: tấm amiăng xi măng dạng phẳng và dạng sóng, tấm lợp mái amiăng xi măng, các sản phẩm dệt may, băng keo, gạch lát, ống amiăng xi măng, vật liệu ma sát, các loại má phanh và các chi tiết đệm…. Để quản lý nhập khẩu, sản xuất, sử dụng amiăng và các sản phẩm chứa amiăng, ngày 17/04/2019, Chính phủ Mỹ đã ban hành Bản quy chế mới về quản lý amiăng và các sản phẩm có chứa amiăng (gửi kèm theo văn bản này), trong đó nhấn mạnh: “Amiăng, cụ thể là amiăng trắng, có nhiều ứng dụng có ích, bao gồm tính dẫn điện thấp nhưng vẫn có khả năng co giãn cao, hệ số ma sát lớn, khả năng chịu nhiệt tốt (trích dẫn số 19). Những đặc tính này khiến amiăng trong thế kỷ 20 trở thành lựa chọn lý tưởng trong vật liệu ma sát ví dụ: phanh, cách nhiệt, cách âm, cách điện và vật liệu xây dựng (như ống amiăng xi măng, vật liệu lợp, lát sàn)”.

Nước Nga hiện nay vừa khai thác chế biến amiăng trắng vừa sử dụng amiăng trong nhiều lĩnh vực. Liên bang Nga hiện có 16 nhà máy sản xuất các sản phẩm amiăng xi măng, hàng năm sản xuất khoảng 300 triệu m2 tấm sóng, tấm phẳng dùng làm tấm lợp, ốp tường, ốp trần, đáp ứng 52% nhu cầu tấm lợp thị trường Nga và 12.000 km đường ống amiăng xi măng quy tiêu chuẩn dùng trong cấp nước nóng, nước lạnh, thoát nước mưa, tưới tiêu, cấp gas, thoát rác.

Thành phố Asbet – Liên bang Nga có 80,000 dân được xây dựng cách đây hơn 125 năm nằm sát cạnh mỏ Uralasbest, được thiết kế hiện đại theo phong cách Nga với phố rộng, rừng cây nhiều, nhà 3 đến 5 tầng lợp toàn bằng tấm lợp amiăng xi măng, hệ thống cấp nước sinh hoạt, nước nóng, thoát nước đều bằng ống amiăng xi măng. Tuổi thọ trung bình của Asbest tương tự như các khu vực khác của nước Nga. Mức chết nằm trong khung chung của nước Nga và thấp hơn so với các khu vực khác của tỉnh Sverlovsk và không ghi nhận các trường hợp tử vong có nguyên nhân là bụi amiăng ở Asbest.

Tại Việt Nam

Theo khảo sát, Việt Nam có khoảng 17 điểm quặng amiang được phân bố chủ yếu ở khu vực phía Bắc như Cao Bằng, Hòa Bình, Sơn La, Thanh Hóa và Phú Thọ. Tuy nhiên những mỏ này có chất lượng sợi không đảm bảo, trữ lượng nhỏ chỉ từ 10.000 đến 60.000 tấn và chủ yếu thuộc nhóm amphibole (amiang nâu và xanh) đã bị cấm sử dụng trên toàn thế giới. Ngoài ra, công nghệ và điều kiện khai thác cũng cho thấy sự không phù hợp. Vì vậy, các doanh nghiệp ngành vật liệu xây dựng hay tiêu dùng đều đang phải nhập khẩu amiang trắng từ các thị trường như Nga, Kazakhstan, Trung Quốc, Canada hay Brazil.

Ở nước ta, khoảng 90% sản lượng amiang trắng nhập khẩu được sử dụng cho ngành sản xuất tấm lợp fibro xi măng (hay còn gọi là tấm amiang xi măng). Số lượng còn lại được phân bổ cho các ngành như sản xuất má phanh, vật liệu bảo ổn cho lò hơi, đường ống dẫn hơi nước, quần áo chống cháy trong ngành cứu hỏa.

Quy định sử dụng để amiang trắng không ảnh hưởng đến sức khỏe con người

Ngày nay, amiang thuộc nhóm amphibole (gồm amiang nâu và xanh) đã bị cấm sủ dụng trên toàn thế giới dưới mọi hình thức để tránh những tác hại đã được khoa học chứng minh. Đối với amiang trắng có thể sử dụng an toàn và có kiểm soát, chỉ những sản phẩm hoặc vật liệu amiang trắng ở hàm lượng cao mới được phép sản xuất và lưu hành. Vì dưới sự gắn kết chặt chẽ với xi măng, sợi amiang trắng sẽ khó có thể bị phát tán ra bên ngoài môi trường và ảnh hưởng đến sức khỏe con người.

Để giảm thiểu tối đa rủi ro, các nước cũng đều ban hành quy định liên quan tới kiểm soát nồng độ bụi sợi trong không khí và môi trường lao động nhằm bảo vệ sức khỏe công nhân và những người tiếp xúc. Tại Mỹ, nồng độ tối đa cho phép trong một ca làm việc là 0,1 sợi/ml. Ấn Độ cho phép 1,0 sợi/ml, trong khi Nga có ngưỡng là 2,0 sợi/ml. Với các nước trong khối ASEAN, Philipins là 2,0 sợi/ml, Indonesia là 1,0 sợi/ml và Thái Lan là 5,0 sợi/ml.

Hiện quy định nồng độ bụi sợi amiang trắng trong không khí tại nơi làm việc của nước ta đang tương đương với Mỹ là 0,1 sợi/ml khi tính trung bình 8 giờ và không vượt quá 0,5 sợi/ml tính trung bình 1 giờ. Đây là mức quy định khá nghiêm ngặt so với nhiều quốc gia khác trên thế giới và trong khu vực.

Tạm kết

Đến nay đã có nhiều đề tài nghiên cứu về các loại sợi thay thế cho amiang trắng, tiêu biểu nhất là sợi PVA. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố như đặc tính sợi và khả năng ứng dụng thực tế không đạt tiêu chuẩn, sợi amiang trắng vẫn được xem như lựa chọn tối ưu cho các ngành sản xuất. Hơn nữa, trong điều kiện công nghệ ngày càng được cải tiến và các quy định an toàn được thực hiện một cách nghiêm ngặt, amiang trắng vẫn được giới chuyên gia cũng như doanh nghiệp tin tưởng là một nguồn nguyên liệu hữu ích cho sản xuất. Nói cách khác, khả năng sử dụng an toàn và có kiểm soát sẽ giúp amiang không ảnh hưởng đến sức khỏe con người.