Bột giấy Kraft (có thể mua hoặc sử dụng ngay bao xi măng nghiền nhỏ), có chức năng điền đầy các lỗ hổng giữa các hạt xi măng, không tạo bọt khí, giúp cho xi măng dễ kết nối với amiăng và đều hơn, và do đó sản phẩm bền chắc hơn.
Các nguy cơ và các yếu tố nguy hại chính phát sinh từ dây chuyền sản xuất tấm lợp amiăng gồm: bụi amiăng, xi măng, bột giấy, độ ẩm cao, lao động khuân vác nặng, tư thế lao động và một số yếu tố có thể gây TNLĐ như lao động trên cao, sàn nhà và sàn thao tác thường xuyên ướt và trơn… Những công đoạn có các yếu tố tiềm tàng có ảnh hưởng đến sức khoẻ NLĐ là công đoạn nhập và tháo bao amiăng và xi măng, nghiền amiăng khô, vận chuyển bao bột amiăng sau khi nghiền sang phối trộn và xử lý vỏ bao amiăng.
1. Công đoạn nhập nguyên liệu
Amiăng: được đóng trong các bao PP đưa vào nhà máy và được nhập vào kho, sau đó theo băng tải (hoặc lao động thủ công) đưa đến các vị trí mở bao để đưa vào máy nghiền trộn. Một số dây chuyền hiện đại, các bao amiăng từ kho theo hệ thống băng tải chuyển vào máy mở và huỷ bao tự động. Trong máy mở và huỷ bao, amiăng được tách ra khỏi bao và chuyển vào silô chứa; vỏ bao được huỷ bằng cách nghiền nhỏ rồi chuyển vào silô, được dùng như nguyên liệu.
Xi măng: Xi măng có thể nhập vào nhà máy dưới dạng bao hoặc xi măng rời từ các xe bồn. Bao xi măng được đưa vào kho, xi măng rời được bơm thẳng vào các silô chứa. Có một số nhà máy bổ sung thêm hệ thống máy nghiền clinker nhằm chủ động trong sản xuất và giảm chi phí đầu vào.
Đối với các dây chuyền sử dụng nguyên liệu amiăng và xi măng đóng bao, đây là công đoạn phát sinh nhiều bụi do các bao có thể bị rách trong quá trình vận chuyển và đòi hỏi tải trọng lao động nặng đối với công nhân khuân vác (các bao amiăng và xi măng thường có tải trọng từ 40-50kg). Đối với các nhà máy có dây chuyền nghiền clinker, công nhân tháo dỡ liệu từ máy nghiền phải chịu mức tiếng ồn, nồng độ bụi rất cao và tải trọng lao động nặng. NLĐ làm việc ở công đoạn này có khả năng bị mắc bệnh bụi phổi amiăng, bụi phổi silic, các bệnh đường hô hấp, bệnh ngoài da, bệnh mắt, bệnh điếc nghề nghiệp và các bệnh cơ xương.
2. Công đoạn chuẩn bị phối liệu
Tại rất nhiều dây chuyền sản xuất tấm lợp amiăng ở nước ta, bao amiăng được định lượng và cắt bao thủ công, sau đó đổ thẳng vào máy nghiền trộn qua 1 hệ thống băng tải hở hoặc trực tiếp vào máy. Nếu amiăng được đóng trong bao giấy thì có thể đưa cả bao vào máy nghiền. Ở một số dây chuyền hiện đại, amiăng có thể được lấy từ silô, định lượng và đưa vào nghiền trộn. Những máy nghiền này có thể hoạt động với sợi khô, sơi ướt hoặc dạng huyền phù, có thể hoạt động độc lập hoặc phối hợp một vài máy với nhau. Tại đây, một lượng bột giấy nhỏ Kraft (khoảng 5% nguyên liệu) được bổ sung. Sau khi xử lý, amiăng được đưa thẳng theo hệ thống băng tải vào bể trộn hoặc nạp vào bao tải vận chuyển đến bể trộn.
Xi măng bao từ kho được vận chuyển theo băng tải (hoặc lao động thủ công) đến các vị trí mở bao để đưa vào bể phối trộn liệu, trộn cùng với nước và amiăng đã được đánh tơi. Xi măng rời từ silô được định lượng tự động và theo hệ thống vít tải vào bể phối trộn liệu.
Đối với các dây chuyền không có máy cắt bao tự động, đây là công đoạn ô nhiễm nhất trong nhà máy tấm lợp amiăng xi măng nếu tại các vị trí này không có hệ thống hút bụi hoặc hệ thống hút bụi hoạt động không có hiệu quả. Bụi phát sinh chủ yếu khi công nhân cắt bao, đổ bao vào băng tải hoặc đổ trực tiếp vào máy nghiền và rũ bao, để bao thành đống bên cạnh. Ngoài ra, tư thế lao động của họ có nhiều bất hợp lý như thường xuyên phải đứng, phải cúi xuống lấy bao, khênh hoặc kéo ra chỗ đổ bao, nâng lên và rũ bao. Do đó, NLĐ làm việc ở đây cũng chịu những nguy cơ như ở công đoạn trên.
Đối với các dây chuyền nghiền amiăng khô, đây cũng là nguồn ô nhiễm bụi lớn trong nhà máy. Bụi phát sinh từ bản thân máy nghiền nếu không được bao che và hút bụi tốt; bụi còn phát sinh từ điểm xả amiăng bột ra băng tải hoặc bao tải và trong quá trình vận chuyển các bao tải này tới công đoạn tiếp theo. Tương tự như ở hai công đoạn trên, công nhân phải lao động nặng, có tư thế lao động không phù hợp với các yêu cầu về ecgonomi và trong môi trường bị ô nhiễm bụi. Bụi phát sinh ở công đoạn này không những ảnh hưởng đến người làm trực tiếp mà còn có thể ảnh hưởng đến NLĐ ở các công đoạn khác trong nhà máy.
3. Công đoạn sản xuất tấm lợp
Phối liệu amiăng – xi măng dạng huyền phù được bơm vào bể chứa hỗn hợp nguyên liệu hoặc máy khuấy hỗn hợp, sau đó được đưa vào các bể xeo cán. Thông thường có khoảng 3 bể, nhiều nhất là 5 bể. Trong mỗi bể có 1 ống trụ bọc lưới thép và do quay liên tục trong hỗn hợp amiăng – xi măng, một lớp mỏng amiăng – xi măng hình thành trên lớp lưới và được chuyển sang hệ thống băng tải nỉ vòng. Tại đây, khoảng 75% lượng nước được tách ra và lớp amiăng này được chuyển đến máy quay tang trống. Các lớp này được cuốn quanh tang trống đến khi đạt một độ dày nhất định thì máy sẽ tự động dừng lại và tấm amiăng bán thành phẩm được cắt theo kích thước yêu cầu (thông thường 1 tấm có diện tích khoảng 1,36m2). Sau đó máy lại tự khởi động lại và bắt đầu quy trình mới.
Các tấm amiăng ướt được chuyển tự động hoặc thủ công (bằng các trục gỗ) sang bộ phận tạo hình. Bộ phận tạo hình là những tấm thép hình sóng, đơn giản hoặc có các hình mẫu, đặt xen kẽ vào các tấm amiăng ướt, có thể thực hiện bằng máy tạo hình hoặc thủ công. Phần rìa của tấm amiăng bị cắt ra hoặc các tấm hỏng trong quá trình định hình được đưa lại về máy đánh tơi để tái sử dụng. Nước thải từ các máy xeo và băng tải vòng được đưa về bể lắng và tuần hoàn trở lại. Trong công đoạn này các tấm lợp amiăng ở trạng thái ướt nên nhìn chung không có phát sinh bụi. Tuy nhiên ở công đoạn này và công đoạn chuẩn bị phối liệu cần lưu ý đến vấn đề vệ sinh công nghiệp. Sàn thao tác thường ở trên một độ cao nhất định, thường xuyên ướt át nên NLĐ rất dễ bị trượt chân hoặc ngã. Các máy công nghệ nếu không đảm bảo các quy định về che chắn an toàn cũng có thể gây những TNLĐ nhỏ.
4. Công đoạn dưỡng hộ
Dưỡng hộ tấm lợp amiăng được thực hiện bằng nước, hơi nước hoặc chính độ ẩm của không khí. Tấm lợp amiăng có thể được dưỡng hộ tự nhiên (phơi sấy và phun nước) ngoài bãi khoảng 28 ngày, sau đó xuất thẳng. Để giảm thời gian dưỡng hộ, tấm lợp cũng có thể được tiền dưỡng hộ khoảng 2 tiếng trong lò tunnel, sử dụng hơi nước bão hoà do nồi hơi cung cấp. Sau khi để nguội tự nhiên, các tấm lợp được ngâm trong nước khoảng 5 phút, sau đó vớt ra sân bãi để dưỡng hộ tự nhiên. Sau khi kiểm tra chất lượng, sản phẩm chuyển sang bãi chờ xuất xưởng.
NLĐ làm việc ở công đoạn này nhìn chung không bị tiếp xúc với các yếu tố có nguy cơ ảnh hưởng đến sức khoẻ. Tuy nhiên, ở các dây chuyền dưỡng hộ bằng hơi nước trong lò tunnel, họ có thể bị ảnh hưởng của hơi nóng phát sinh từ lò, đặc biệt khi mở cửa lò và các yếu tố nguy hiểm nếu hệ thống cấp hơi không đảm bảo an toàn.
Trinh Hương